top of page
Rechercher
  • Photo du rédacteurTỪ THỨC

*****Tuyệt phẩm. Văn tế thập loại chúng sinh

Dernière mise à jour : 7 sept. 2018

’Tiết tháng Bẩy mưa dầm sùi sụt/ toát hơi may lạnh buốt xương khô ..’’ Nhân dịp tháng cô hồn ( tháng Bẩy âm lịch, từ 11 Août tới 9 Septembre 2018 ), nên đọc lại, hay khám phá ,‘’ Văn tế thập loại chúng sinh ‘’ của Nguyễn Du . Với tấm lòng nhân ái vô biên, với sự cảm thông cái đau thương mênh mông của kiếp người, chỉ có nơi một nghệ sĩ cực kỳ đa cảm, Nguyễn Du đã viết một tuyệt tác văn chương chữ Nôm .

Ít khi nào chữ ''tuyệt tác'' được cân nhắc hơn trong trường hợp này, với tác phẩm này. Mỗi chữ, mỗi câu, mỗi hình ảnh là một tuyệt tác. Đọc ‘’ Văn tế thập loại chúng sinh ‘’ để thấy tất cả cái thảm kịch của người Việt tác giả truyện Kiều mô tả cuối thế kỷ 19, ngày nay không những vẫn hiện diện , mà còn gia tăng. Bởi vì nếu văn tế nói về những oan hồn chết tức tuởi nơi địa ngục, cũng chính là bức tranh bi đát của xã hội VN hôm nay. . ‘’ Thương thay thập loại chúng sinh / hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người/ hương khói đã không nơi nương tựa/ hồn mồ côi lần lữa đêm đen.. ‘’ Đọc ‘’ Văn tế ‘’ để thấy gần một thế kỷ trước, chữ Nôm, tiếng Việt đã giầu có như thế nào, đã trang nhã như thế nào, đã phong phú như thế nào. Đọc để thấy những năm gần đây, vô tình hay cố ý, với Bùi Hiền, hay trước cả Bùi Hiền, cùng lúc với BH, người ta đã tàn sát ngôn ngữ dân tộc như thế nào.

Đọc lại Văn Tế để cảm thương thân phận của đồng bào, của quên hưong. Đọc lại Văn tế, khẩn cấp, để tìm lại cái tình người mênh mông trong một xã hội tử tế đang mất dần


Trong cái không khí ghê rợn, ma quái, thê lương của những oan hồn lầm lũi kéo nhau đi giữa cõi âm, của những ‘’ quỷ không đầu than khóc đêm mưa ‘’, người đọc rùng mình như đang chứng kiến cái bi kịch của xã hội, của đồng bào chung quanh mình trên cõi thế. Nguyễn Du khóc nạn nhân của những ‘’ bãi sa trường thịt nát, máu rơi / bơ vơ góc bể chân trời/ nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao ‘’. Những người thành đạt ở đời, ‘’ khi nằm xuống không người nhắn nhủ/ của phù du dẫu có như không ‘’. Những người lưu lạc, giang hồ , ‘’ cô hồn nhờ gởi tha phương/ gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng ‘’. Những nạn nhân của binh đao, ‘’ buổi chiến trận mạng người như rác / phận đã đành đạn lạc tên rơi ‘’. Những người vì hoàn cảnh phải buôn nguyệt bán hoa, ‘’ ngẩn ngơ khi đã về già/ đâu chồng con tá, biết là cậy ai ? ‘’. Những người ăn mày khốn khổ, nằm đầu gối đất ‘’ dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi/ thưong thay cũng một kiếp người/ sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan ‘’. Những người bị án oan của bạo quyền : ‘’ Cũng có kẻ mắc oan tù rạc/ gởi mình vào chiếu rách một manh/ nóc xương chôn rấp góc thành/ kiếp nào gởi được oan tình ấy đi ‘’. Văn tế không quên một ai, từ những người sa cơ lỡ vận, những người ‘’ quán nọ cấu này bơ vơ ‘’, nhữ kẻ ‘’ chìm sông lạc suối ‘’, những tiểu nhi ‘’ lỗi sinh lìa mẹ lìa cha ‘’. Chưa có nghệ sĩ VN nào thông cảm với phụ nữ hơn Nguyễn Du ; ‘’ đau đớn thay phận đàn bà / kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu ? ‘’

Người đọc không thể không xúc động liên tưởng tới thảm kịch bi thảm, ghê rợn nhất của dân tộc cách đây trên 40 năm khi nghe Nguyễn Du khóc những nạn nhân ‘’ gặp cơn giông tố giữa dòng/ đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê ‘’ Nguyễn Du không quên gởi lời nhắn nhủ, tới những người dở đủ mọi thủ đoạn để tiến thân, để thành đạt , ‘’ sống thời tiền chẩy bạc ròng/ thác không mang được một đồng nào đi '', gần như một lời cảng cáo : '' khi sao đông đúc vui cười / mà khi nhắm mắt không người nhặt xương ? '' Với từ tâm vô biên của một nghệ sĩ thông cảm tận cùng thân phận bi đát của nhân sinh, Nguyễn Du thắp một nén hương quý ‘’ muôn nhờ đức Phật từ bi/ giải oan cứu khổ hồn về phương Tây '' Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra Lôi thôi bồng trẻ dắt già Có linh thiêng nhẽ lại mà nghe kinh...

Từ Thức, Paris, cuối tháng 8/2018

-NGHE VĂN TẾ:

https://www.youtube.com/watch?v=HXMrnxGcqsk

https://www.youtube.com/watch?v=wYgvy3aCd9U

https://www.youtube.com/watch?v=Lh7YhxW8Lws


- ĐỌC VĂN TẾ:

1. Nguyên văn VTTLCS

2. Bản dịch tiếng Pháp Văn tế của bà Hélène Péras


1. Nguyên văn VĂN TẾ THẬP LOẠI NHÂN NHÂN SINH Nguyễn Du

Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt, Toát hơi may lạnh buốt xương khô, Não người thay buổi chiều thu, Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng. 5. Đường bạch dương bóng chiều man mác, Ngọn đường lê lác đác sương sa, Lòng nào là chẳng thiết tha, Cõi dương còn thế nữa là cõi âm. Trong trường dạ tối tăm trời đất, 10. Có khôn thiêng phảng phất u minh, Thương thay thập loại chúng sinh, Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người. Hương khói đã không nơi nương tựa, Hồn mồ côi lần lữa đêm đen, 15. Còn chi ai quí ai hèn, Còn chi mà nói ai hiền ai ngu? Tiết đầu thu lập đàn giải thoát Nước tĩnh bình rưới hạt dương chi Muôn nhờ đức Phật từ bi, 20. Giải oan, cứu khổ, hồn về tây phương.

Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh, Chí những lăm cướp gánh non sông, Nói chi những buổi tranh hùng Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau. 25. Bỗng phút đâu mưa sa ngói lở Khôn đem mình làm đứa sất phu, Lớn sang giàu nặng oán thù, Máu tươi lai láng, xương khô rã rời.

Đoàn vô tự lạc loài nheo nhóc, 30. Quỷ không đầu than khóc đêm mưa Cho hay thành bại là cơ Mà cô hồn biết bao giờ cho tan!

Cũng có kẻ màn lan trướng huệ, Những cậy mình cung quế Hằng Nga, 35. Một phen thay đổi sơn hà, Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu? Trên lầu cao dưới cầu nước chảy Phận đã đành trâm gãy bình rơi, Khi sao đông đúc vui cười, 40. Mà khi nhắm mắt không người nhặt xương.

Đau đớn nhẽ không hương không khói, Luống ngẩn ngơ dòng suối rừng sim. Thương thay chân yếu tay mềm Càng năm càng héo, một đêm một rầu.

45. Kìa những kẻ mũ cao áo rộng, Ngọn bút son thác sống ở tay, Kinh luân găm một túi đầy, Đã đêm Quản Cát lại ngày Y Chu. Thịnh mãn lắm oán thù càng lắm, 50. Trăm loài ma mồ nấm chung quanh, Nghìn vàng khôn đổi được mình Lầu ca, viện hát, tan tành còn đâu? Kẻ thân thích vắng sau vắng trước Biết lấy ai bát nước nén nhang? 55. Cô hồn thất thểu dọc ngang, Nặng oan khôn nhẽ tìm đường hoá sinh.

Kìa những kẻ bài binh bố trận Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung. Gió mưa sấm sét đùng đùng, 60. Dãi thây trăm họ nên công một người. Khi thất thế tên rơi đạn lạc, Bãi sa trường thịt nát máu rơi, Bơ vơ góc bể chân trời, Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao? 65. Trời thăm thẳm mưa gào gió thét, Khí âm huyền mờ mịt trước sau, Ngàn mây nội cỏ rầu rầu, Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?

Cũng có kẻ tính đường trí phú, 70. Mình làm mình nhịn ngủ kém ăn, Ruột rà không kẻ chí thân Dẫu làm nên để dành phần cho ai? Khi nằm xuống không người nhắn nhủ, Của phù du dẫu có như không, 75. Sống thời tiền chảy bạc ròng, Thác không đem được một đồng nào đi. Khóc ma mướn, thương gì hàng xóm Hòm gỗ đa bó đóm đưa đêm Ngẩn ngơ trong quảng đồng chiêm, 80. Nén hương giọt nước, biết tìm vào đâu?

Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý Dấn mình vào thành thị lân la, Mấy thu lìa cửa lìa nhà, Văn chương đã chắc đâu mà trí thân? 85. Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng, Vợ con nào nuôi nấng khem kiêng, Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng, Anh em thiên hạ láng giềng người dưng. Bóng phần tử xa chừng hương khúc 90. Bãi tha ma kẻ dọc người ngang, Cô hồn nhờ gửi tha phương, Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.

Cũng có kẻ vào sông ra bể, Cánh buồm mây chạy xế gió đông 95. Gặp cơn giông tố giữa dòng, Đem thân vùi rấp vào lòng kình nghê.

Cũng có kẻ đi về buôn bán, Đòn gánh tre chín dạn hai vai, Gặp cơn mưa nắng giữa trời, 100. Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?

Cũng có kẻ mắc vào khoá lính, Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan, Nước khe cơm ống gian nan, Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời. 105. Buổi chiến trận mạng người như rác, Phận đã đành đạn lạc tên rơi. Lập loè ngọn lửa ma trơi, Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.

Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp, 110. Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa, Ngẩn ngơ khi trở về già, Đâu chồng con tá biết là cậy ai? Sống đã chịu một đời phiền não Thác lại nhờ hớp cháo lá đa, 115. Đau đớn thay phận đàn bà, Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?

Cũng có kẻ nằm cầu gối đất, Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi, Thương thay cũng một kiếp người, 120. Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan!

Cũng có kẻ mắc oan tù rạc Gửi mình vào chiếu rách một manh. Nắm xương chôn rấp góc thành, Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi?

125. Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé, Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha. Lấy ai bồng bế vào ra, U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.

Kìa những kẻ chìm sông lạc suối, 130. Cũng có người sẩy cối sa cây, Có người leo giếng đứt dây, Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành. Người thì mắc sơn tinh thuỷ quái Người thì sa nanh sói ngà voi, 135. Có người hay đẻ không nuôi, Có người sa sẩy, có người khốn thương. Gặp phải lúc đi đường lỡ bước Cầu Nại Hà kẻ trước người sau Mỗi người một nghiệp khác nhau 140. Hồn xiêu phách tán biết đâu bây giờ?

Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi, Hoặc là nương ngọn suối chân mây, Hoặc là bụi cỏ bóng cây, Hoặc nơi quán nọ cầu này bơ vơ. 145. Hoặc là nương thần từ, Phật tự Hoặc là nơi đầu chợ cuối sông Hoặc là trong quãng đồng không, Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre.

Sống đã chịu nhiều bề thảm thiết, 150. Gan héo khô dạ rét căm căm, Dãi dầu trong mấy mươi năm, Thở than dưới đất, ăn nằm trên sương. Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn, Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra, 155. Lôi thôi bồng trẻ dắt già, Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh. Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ, Phóng hào quang cứu khổ độ u, Rắp hoà tứ hải quần chu, 160. Não phiền rũ sạch, oán thù rửa không. Nhờ đức Phật thần thông quảng đại, Chuyển pháp luân tam giới thập phương, Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương, Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh. 165. Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh, Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao, Mười loài là những loài nào? Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh. Kiếp phù sinh như hình bào ảnh, 170. Có chữ rằng: "Vạn cảnh giai không" Ai ơi lấy Phật làm lòng, Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi. Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo, Của có chi bát cháo nén nhang, 175. Gọi là manh áo thoi vàng, Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên. Ai đến đây dưới trên ngồi lại, Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu. Phép thiêng biến ít thành nhiều, 180. Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sình. Phật hữu tình từ bi phổ độ Chớ ngại rằng có có không không. Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.

_____________________________________________________


2. Bản dịch VTTLCS tiếng Pháp của bà Hélène PÉRAS. Cám ơn Kim Thai Quynh đã gởi. Bà Péras, bác sĩ tâm thần, triết gia, thi sĩ, vừa từ trần tháng 7/2018 tại Avignon. Thông thạo tiếng Nga, Hy Lạp, tiếng Việt, bà đã dịch thơ Hàn Mặc Tử

ORAISON POUR LES ÂMES ERRANTES

Hélène PÉRAS Sous l’incessante pluie du septième mois La brume froide transit les ossements arides Triste ô combien le soir d’automne Blanchit la forêt de roseaux, tombent les feuilles d’or Vague est la lueur du soir qui s’étend sur les trembles Le faîte des sorbiers ruisselle goutte à goutte. Quel cœur ne serait étreint d’angoisse Si tel est le monde de la lumière, qu’en est-il du monde de l’ombre ? Dans l’univers de la longue et profonde nuit Grâce pour ceux qui flottent dans l’obscur Pitié pour toutes les âmes des morts Seules à la dérive loin de la terre natale Nulle fumée secourable d’encens Orphelines au long des nuits Que reste-t-il des nobles et des humbles Peut-on parler encore de sages et de sots ? Sur l’autel du Salut au début de l’automne Par la branche de saule et l’aspersion d’eau pure Confiées à la miséricorde infinie du Bouddha Qu’elles soient délivrées et parviennent au lieu de la Paix. ……………………………………………………………. Ceux qui déployaient l’armée en ordre de bataille Investis du commandement suprême À grand fracas tonnaient les gongs Tout un peuple tombait au service d’un seul Est venue la défaite sans plus d‘arcs ni de flèches Sur les champs de bataille, chairs en lambeaux ensanglantées, Perdus dans les régions lointaines Ils ont été enfouis sous les dépouilles des chevaux Dans la nuit qui descend, le vacarme de la pluie et du vent, Encerclés par l’opaque vapeur de mort D’âge en âge exposés à la brume, au soleil, Sans nul rite accompli ni d’hiver ni d’automne. ……………………………………………………………. Et puis ceux qui s’en sont allés par les fleuves et les mers Leur voile courait sous le vent printanier L’orage au milieu des flots les a surpris Les baleines ont englouti leur corps ……………………….. Ceux enrôlés dans les cinq armes Pour servir le mandarin ils ont quitté la maison Sans rien qu’une gourde d’eau, un rouleau de riz Partis au loin pour une vie d’épreuve et de malheur Dans le combat l’homme ne compte pour rien Son corps n’évitera pas le boulet ou la flèche Apparaissent les lueurs tremblantes des feux follets Et dans la nuit plus douloureux encore sont les gémissements. ………………………………………………………………… Que Bouddha vous donne la délivrance et la Terre Pure Que sa lumière vous entoure et vous sauve de l’ombre En tous lieux de votre périple Qu’elle vous purifie de vos peines, vous lave de vos rancunes ……………………………………………………………….. Que la force sacrée de Bouddha Dissipe l’inconscience, vous éveille du songe Aux dix sortes d’âmes quelle que soit votre appartenance Femmes ou hommes, jeunes ou vieux, entrez tous écouter la prière. La vie humaine est précaire illusion Il est dit : les dix mille mondes ne sont que néant Tous invoquez sans cesse le Bouddha Et vous serez sauvés, affranchis de la mort et de la renaissance. Sur l’autel du pardon, selon l’enseignement de Bouddha Qu’y a-t-il ? un peu de soupe claire, des baguettes d’encens L’apparence d’un mince vêtement et d’un peu d’or Viatique pour votre route vers le ciel Vous tous qui êtes venus, humbles et puissants, demeurez Agréez ces offrandes, n’ayez pas peur, prenez La grâce miraculeuse les multipliera Entre tous, d’en haut, elles seront réparties Bouddha dans sa douce miséricorde vous libère des épreuves Ne craignez pas d’être laissés Vénérons le Bouddha, la Loi et la Communauté À nul n’est refusé le suprême salut.


-Về bà H.PÉRAS:

http://ugvr.org/ugvr/articles/ngay-nguyen-du-journee-nguyen-du-08-11-2015/l2019oraison-pour-les-ames-errantes-communication-du-dr-helene-peras




480 vues0 commentaire

Posts récents

Voir tout
bottom of page